Bài Giảng Pháp Luật Đại Cương Luật Hôn Nhân Và Gia Đình

Bài Giảng Pháp Luật Đại Cương Luật Hôn Nhân Và Gia Đình

Trong đời sống hôn nhân gia đình, mâu thuẫn, tranh chấp là điều không thể tránh khỏi. Nếu những mâu thuẫn đó không được giải quyết thì có thể sẽ gây nên những tổn hại về mặt tình cảm gia đình và đặc biệt là có thể dẫn đến những hậu quả pháp lý nghiêm trọng. Luật hôn nhân gia đình do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ pháp luật trong hôn nhân và gia đình qua đó giải quyết những mâu thuẫn khi không thể tự giải quyết được bằng hòa giải, thương lượng.

Câu 23. Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu trong trường hợp nào?

Theo quy định tại khoản 1 Điều 50 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị Tòa án tuyên bố vô hiệu khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Không tuân thủ điều kiện có hiệu lực của giao dịch được quy định tại Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan;

b) Vi phạm một trong các quy định về nguyên tắc chung về chế độ tài sản của vợ chồng (Điều 29), quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng trong việc đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình (Điều 30); giao dịch liên quan đến nhà là nơi ở duy nhất của vợ chồng (Điều 31); giao dịch với người thứ ba ngay tình liên quan đến tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán và động sản khác mà theo quy định của pháp luật không phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng (Điều 32) của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

c) Nội dung của thỏa thuận vi phạm nghiêm trọng quyền được cấp dưỡng, quyền được thừa kế và quyền, lợi ích hợp pháp khác của cha, mẹ, con và thành viên khác của gia đình.

Tư vấn về các tranh chấp trong hôn nhân và gia đình của Công ty luật Việt An

Ly hôn và tranh chấp chia tài sản khi ly hôn, nội dung tư vấn bao gồm:

Tranh chấp thừa kế di sản và pháp luật về di sản, nội dung tư vấn bao gồm:

Tranh chấp thừa kế về di chúc, nội dung tư vấn bao gồm:

Nguyên tắc giải quyết tranh chấp trong quan hệ hôn nhân và gia đình

Nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn:

- Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn (Điều 115):

Khi ly hôn nếu bên khó khăn, túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do chính đáng thì bên kia có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng của mình.

Nghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác và không thể chuyển giao cho người khác.

Trong trường hợp người có nghĩa vụ nuôi dưỡng trốn tránh nghĩa vụ thì theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức được quy định tại Điều 119 của Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án buộc người đó phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của Luật này.

Câu 57. Vợ chồng chị A đã chung sống với nhau được 3 năm và hiện đang có một con lên 2 tuổi. Tuy nhiên, trong suốt quá trình sinh sống, cả hai người đều không thấy hạnh phúc và đã nộp đơn yêu  cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Chị A và chồng thống nhất để chị A trực tiếp nuôi con, chồng chị A có nghĩa vụ cấp dưỡng đối với con. Tuy nhiên, hai vợ chồng chị A không thống nhất được mức cấp dưỡng. Xin hỏi pháp luật quy định về vấn đề này như thế nào?

Theo quy định tại Điều 116 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, mức cấp dưỡng nuôi con do chị A và chồng chị A thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của chồng chị A và nhu cầu thiết yếu của người con; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

[1] Khoản 1 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:

Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:

a) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;

b) Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;

c) Không bị mất năng lực hành vi dân sự;

d) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật này, gồm:

- Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;

- Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;

- Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;

- Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng./.

Tòa nhà số 52 đường Út Tịch, Phường 4, Quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh

Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp số 0309532909 do Sở Kế Hoạch và Đầu Tư Thành phố Hồ Chí Minh cấp lần đầu vào ngày 06/01/2010.

Dịch vụ tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình của Công ty luật Việt An

Dịch vụ tư vấn pháp luật hôn nhân gia đình của công ty Luật Việt An với hơn 15 năm kinh nghiệm chuyên sâu và phong cách làm việc chuyên nghiệp sẽ hỗ trợ khách hàng trong việc tìm ra hướng giải quyết cho những tranh chấp mâu thuẫn trong hôn nhân và gia đình đồng thời giúp giải quyết những thủ tục hành chính liên quan đến lĩnh vực này.

Công ty Luật Việt An hỗ trợ tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đinh qua các hình thức sau:

Tại Điều 51 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về quyền yêu cầu giải quyết ly hôn như sau:

1. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.

2. Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.

3. Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.

Như vậy, pháp luật chỉ quy định người chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ có thai, sinh con, hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Ở trường hợp của bạn, bạn có thể yêu cầu giải quyết ly hôn với chồng nếu tình trạng hôn nhân của bạn lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.

- Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con (Điều 110):

Cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không sống chung với con hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con.

Theo quy định tại Điều 43 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật hôn nhân và gia đình; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.

Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 33 và khoản 1 Điều 40 của Luật hôn nhân và gia đình.

Căn cứ vào quy định nêu trên, số tiền 500 triệu đồng là tài sản bạn tích lũy được trước khi kết hôn, vì vậy đó là tài sản riêng của bạn.

Theo Điều 44 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của vợ, chồng được quy định như sau:

- Vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình; nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào tài sản chung.

- Trong trường hợp vợ hoặc chồng không thể tự mình quản lý tài sản riêng và cũng không ủy quyền cho người khác quản lý thì bên kia có quyền quản lý tài sản đó. Việc quản lý tài sản phải bảo đảm lợi ích của người có tài sản.

- Nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi người được thanh toán từ tài sản riêng của người đó.

- Trong trường hợp vợ, chồng có tài sản riêng mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản này phải có sự đồng ý của chồng, vợ.

Như vậy, đối với số tiền 500 triệu đồng là tài sản riêng của bạn có được trước khi kết hôn, bạn có thể nhập hoặc không nhập vào không nhập vào tài sản chung là do bạn tự quyết định.

Câu 22. Người yêu của tôi làm nghề buôn bán kinh doanh và tính ưa mạo hiểm.  Đã có lần anh ấy phải bán hết tài sản đi để trả nợ vì làm ăn thua lỗ. Sắp tới, chúng tôi sẽ kết hôn với nhau. Tuy nhiên, tôi vẫn luôn bị ám ảnh bởi câu chuyện phá sản của anh ấy nên trước khi kết hôn tôi muốn có bản thỏa thuận rõ ràng về chế độ tài sản giữa hai người.  Xin hỏi, tôi có được quyền làm như vậy không? Pháp luật quy định về vấn đề này như thế nào?

Theo quy định tại Điều 47 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, bạn được quyền lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận khi kết hôn. Trong trường hợp này, thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng phải được lập trước khi kết hôn, bằng hình thức văn bản có công chứng hoặc chứng thực. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được xác lập kể từ ngày đăng ký kết hôn.

Khoản 1 Điều 48 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định nội dung cơ bản của thỏa thuận về chế độ tài sản bao gồm:

a) Tài sản được xác định là tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng;

b) Quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng và giao dịch có liên quan; tài sản để bảo đảm nhu cầu thiết yếu của gia đình;

c) Điều kiện, thủ tục và nguyên tắc phân chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài sản;