Sinh ngày 16/9/1923 trong một gia đình gốc Hoa định cư tại Singapore từ cuối thế kỉ 19, ông Lý Quang Diệu được xem là người có tầm ảnh hưởng nhất trong việc định hình nên đất nước Singapore hiện đại, với dấu ấn không thể phủ nhận trong mọi sự kiện lịch sử của đảo quốc này. Ông đã cùng đảng Hành động Nhân dân (PAP) thành lập chính phủ tự trị đầu tiên trong thập niên 1950, trước khi sáp nhập với Malaysia đầu những năm 1960 và nỗ lực để đảm bảo sự tồn tại của quốc đảo nhỏ bé này sau khi chính thức tuyên bố độc lập vào ngày 9/8/1965.
Lý Quang Diệu, người sáng lập Singapore
Có viễn kiến, tính cách lạnh lùng cứng rắn, ông Lý Quang Diệu đã biến STY37859759Vì sao người nước ngoài đắm đuối Singapore?Vì sao người nước ngoài đắm đuối Singapore?Điều gì khiến Singapore được xếp hạng cao là nơi để sống và làm việc cho người nước ngoài.2015-03-18T17:24:09+00:002015-03-22T21:24:58+00:002015-03-22T21:24:58+00:002015-03-23T00:12:41+00:00PUBLISHEDvitopcat2 từ một hòn đảo nhỏ bé không hề có tài nguyên thiên nhiên gì trở thành một nền kinh tế phát triển thành công, thịnh vượng.
Ông Lý đã thành công trong việc biến Singapore thành một sự kỳ diệu về kinh tế, sự pha trộn giữa kinh tế tư nhân và chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Ông Lý đã đưa Singapore trở nên thịnh vượng, hiện đại, hiệu quả và trên thực tế là không có nạn tham nhũng, nơi mà các nhà đầu tư hải ngoại muốn vào làm ăn.
Tuy nhiên, trong lúc được ngưỡng mộ về những thành tích kinh tế đạt được, ông bị nhiều người cho là đã tạo ra tình trạng nhân quyền không mấy hay ho.
Ông Lý Quang Diệu sinh ngày 16/9/1923 tại Singapore, là con trong thế hệ thứ ba những người gốc Hoa nhập cư.
Lớn lên, ông chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ Anh - cha ông đã gọi ông là Harry Lee, cái tên ông được biết đến trong phần lớn những năm tuổi trẻ.
Ông Lý theo học trung học tại một trường của Anh ở Singapore.
Tuy nhiên, việc học ở cấp cao hơn đã bị gián đoạn trong thời gian Nhật chiếm đóng, bắt đầu từ năm 1942.
Trong ba năm sau đó, ông đã tham gia thị trường chợ đen và cũng dùng vốn tiếng Anh của mình để làm việc cho bộ phận tuyên truyền của Nhật.
Sau chiến tranh, ông đã có một thời gian ngắn theo học ở trường London School of Economics ở London, rồi tới tại Cambridge, nơi ông theo học ngành luật.
Trong thời gian ở Anh, ông Lý trở thành ủng hộ viên nhiệt thành của BBC Home Service, tiền thân của kênh phát thanh Radio 4 sau này, và đã dành thời gian vận động cho một người bạn đại học chạy đua ghế dân biểu ở vùng nông thôn Devon, miền tây England.
Ông Lý, một người theo đuổi đường lối xã hội từ ngày còn là sinh viên, đã trở về Singapore và trở thành một luật sư có tiếng, chuyên về lĩnh vực nghiệp đoàn.
Năm 1954, ông là sáng lập viên và là tổng bí thư đầu tiên của Đảng Nhân dân Hành động (PAP), vị trí mà ông sẽ nắm giữ trong gần 40 năm sau đó.
PAP thắng đa số phiếu trong kỳ bầu cử 1959 và Singapore chuyển từ nơi do Anh kiểm soát thành một quốc gia tự quản.
Ông Lý đưa Singapore sáp nhập với Malaysia vào năm 1963, nhưng chuyện này chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn ngủi. Hàng loạt các cuộc đụng độ bạo lực giữa các nhóm sắc tộc khiến Singapore quyết định rời khỏi liên bang và trở thành một quốc gia hoàn toàn độc lập.
Đó là một quyết định khó khăn đối với ông Lý, bởi ông coi việc liên kết với Malaysia là cách để cuối cùng có thể lật đổ được quá khứ thuộc địa ở khu vực. Ông mô tả điều này là "một thời khắc đau đớn".
Tuy nhiên, các mối liên hệ thương mại và quân sự với Malaysia vẫn được duy trì, và Anh được khuyến khích giữ căn cứ của mình tại Singapore để phòng vệ chung cho cả hòn đảo này lẫn Malaysia.
Ông Lý đưa ra một chương trình cải tổ to lớn, nhằm biến đối Singapore từ "nơi tăm tối với đói nghèo và tan rã" thành một quốc gia công nghiệp hóa hiện đại.
Để đạt được thành tựu, ông đã duy trì việc kiểm soát chính trị một cách gắt gao đối với mọi khía cạnh ở thành phố quốc đảo này, khiến nơi đây trở thành một trong những xã hội được điều tiết, quản lý chặt chẽ nhất.
Ông Lý bắt giữ một số người dám chỉ trích ông mà không cần qua xét xử, hạn chế truyền thông và ấn phẩm nước ngoài, và bắt giữ một số phóng viên.
"Tự do báo chí, tự do truyền thông tin tức đều phải lệ thuộc vào nhu cầu bảo vệ sự toàn vẹn của Singapore," ông nói.
Ông biện hộ cho những hành động của mình bằng cách nói các tờ báo là được tài trợ bởi các thế lực thù nghịch ở nước ngoài.
Ông Lý cho rằng để phát triển một quốc gia, một số quyền tự do cần phải bị hy sinh. Lựa chọn thay thế cho chủ nghĩa chống cộng chính là chủ nghĩa cộng sản, và mô hình phương Tây về tự do dân chủ là không thể áp dụng được.
Tuy nhiên, một số người chỉ trích nói rằng việc giữ toàn bộ ghế trong quốc hội khiến ông có đủ sức mạnh an ninh để không cần phải dùng đến các biện pháp đàn áp đó.
Là một người cương quyết chống cộng, nhưng ông bị cho là đã áp dụng mô hình chế độ theo kiểu cộng sản, dẫu cho khác với các chế độ cộng sản khác, người dân Singapore đã được hưởng lợi về mặt kinh tế dưới sự lãnh đạo của ông.
Từ 1960 tới 1980, mức giá trị hàng hóa dịch vụ bình quân đầu người (GNP per capita) ở Singapore tăng gấp 15 lần.
Israel là quốc gia bị bao quanh bởi các nước Ả rập thù nghịch. "Giống như Israel, chúng ta cần phải nhảy vượt lên so với các nước còn lại trong khu vực, và phải thu hút được các công ty đa quốc gia," ông Lý nói.
Ông hiểu được tầm quan trọng của việc xây dựng quan hệ tốt với Trung Quốc, điều có thể đạt được nhờ tình bạn giữa ông và lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình.
Ông Đặng tới thăm Singapore vào năm 1978 và tỏ ra ngưỡng mộ các chính sách kinh tế của ông Lý.
Ông Lý thì ngưỡng mộ những cải cách mà ông Đặng áp dụng tại Trung Quốc.
Ông Lý đã đưa ra các biện pháp nhằm loại trừ tình trạng tham nhũng, vốn là nạn dịch ở nơi từng là thuộc địa này, đưa ra chương trình nhà ở giá thấp và kế hoạch công nghiệp hóa nhằm tạo công ăn việc làm.
Ông cũng nỗ lực phát triển đồng đều các nhóm sắc tộc đa dạng trên hòn đảo, nhằm tạo bản sắc Singapore độc đáo dựa trên nền tảng đa văn hóa.
Ông rất tin tưởng và tính hiệu quả của việc trừng phạt cá nhân, điều mà bản thân ông cũng từng phải nhận thời còn đi học.
"Tôi nằm vắt ngang người qua cái ghế, vẫn được mặc quần và bị ba roi đau điếng người," sau này ông kể lại. "Tôi không bao giờ hiểu được tại sao các nhà giáo dục học phương Tây lại phản đối việc trừng phạt cá nhân một cách mạnh mẽ thế. Chuyện đó chả làm cho tôi hay các bạn học của tôi hề hấn gì."
Khi ông rời nhiệm sở, việc áp dụng các hình phạt đã trở thành một phần không tách rời trong hệ thống tư pháp Singapore, được áp dụng đối với trên 40 loại tội khác nhau.
Ông Lý cũng áp dụng các biện pháp nhằm kiểm soát tình trạng tăng dân số nhanh chóng tại Singapore, đưa ra chiến dịch vận động kế hoạch hóa gia đình và thông qua chính sách thuế trừng phạt những ai đẻ quá hai con.
Sau đó, ông đã khuyến khích các phụ nữ có học thức kết hôn bằng cách cho họ miễn bị chính sách kiểm soát việc sinh con, vốn vẫn áp dụng cho những phụ nữ được học hành ít hơn.
Người Singapore được dạy cách lịch sự, bớt ồn ào om sòm, biết cách xả nước trong nhà vệ sinh, và không ăn kẹo cao su. Trên tường thì không có các hình vẽ graffiti bởi chính phủ nói không được làm vậy.
"Chúng tôi bị gọi là một quốc gia bảo mẫu," ông Lý từng có lần nói với BBC. "Nhưng kết quả là ngày nay chúng tôi đã xử sự khá hơn, sống trong một nơi dễ hòa đồng với nhau hơn so với 30 năm về trước."
Tuy nhiên, bất chấp mức sống đã được nâng cao hơn và cuộc sống ngày càng trở nên sung túc hơn, nhiều cử tri trẻ tuổi vẫn không thích ông mà có xu hướng bầu cho đảng đối lập chính.
Hồi tháng Giêng 1985, ông đã làm mới nội các với các nhà kỹ trị trẻ tuổi, và tuy nền kinh tế trải qua những khó khăn, đảng của ông tiếp tục giành chiến thắng long trời lở đất trong kỳ bầu cử.
Khi từ chức vào năm 1990 sau khi đã chiến thắng không dưới bảy kỳ bầu cử, ông Lý trở thành vị thủ tướng nắm quyền lâu nhất thế giới còn sống.
Ông vẫn hoạt động chính trị tích cực, tham gia chiến dịch vận động nhằm thuyết phục người Singapore sử dụng tiếng Trung nhiều hơn nữa, bên cạnh tiếng Anh.
Trong thời gian ông nắm quyền, Singapore đã từ một nước đang phát triển trở thành một trong những nước công nghiệp tân tiến nhất tại Á châu.
Có những người cho rằng để đạt được sự phát triển đó, cái giá phải trả là tự do cá nhân, và người ta thường nhắc tới việc ông Lý thường thích kiện các tổ chức truyền thông bất đồng với mình.
Lý luận của ông về tương lai Singapore đã được tổng kết trong một cuộc phỏng vấn giữa ông với đài truyền hình Trung Quốc hồi 2005.
Ông Lý tuyên bố: "Trong một thế giới có sự khác biệt, chúng tôi cần tìm một cái riêng, độc đáo cho mình, những góc nho nhỏ, nơi mà bất chấp quy mô nhỏ của mình, chúng tôi vẫn có thể thực hiện vai trò có ích cho thế giới."
Về đối ngoại, Singapore có một tầm nhìn xa về chiến lược khi chủ trương bắt tay rộng mở với mọi quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Về đối nội, Singapore thực thi một đường lối “quốc trị” của riêng mình với những luật lệ nghiêm khắc (phạt từ những điều nhỏ nhặt như xả rác công viên, kéo nước nhà vệ sinh,...). Thu nhập bình quân đầu người của Singapore chỉ khoảng 400USD/năm, khi ông Lý Quang Diệu mới lên nắm quyền, thế nhưng đến nay con số này đã là hơn 60.000USD/năm.
Trọng dụng nhân tài là chính sách quan trọng nhất mà “kiến trúc sư” Lý Quang Diệu đã kiên trì theo đuổi để xây dựng Singapore trở thành quốc gia phồn thịnh bậc nhất, điểm đến an toàn và hấp dẫn các nhà đầu tư nhất, là nơi “đáng sống” nhất khu vực.
Trong cuốn hồi ký “Từ Thế giới thứ ba lên Thế giới thứ nhất – Câu chuyện Singapore: 1965 – 2000” xuất bản năm 2000, ông Lý Quang Diệu khẳng định: “Nhân tài là tài sản quý báu nhất của quốc gia” và “càng có nhiều nhân tài là những vị bộ trưởng, các nhà quản trị và những người có chuyên môn cao thì các chính sách càng có nhiều ảnh hưởng, kết quả đạt được càng tốt hơn”.
Từ nhận thức sâu sắc này, ông đã đề ra và thực hiện nhiều chính sách tạo nguồn, nuôi dưỡng và thu hút nhân tài trong, ngoài nước. Để có được lực lượng nhân tài dồi dào, Singapore sớm có chính sách xây dựng nguồn nhân lực, tạo cơ hội phát triển cho tất cả mọi người. Giáo dục phổ thông được miễn phí không chỉ có học phí mà cả sách giáo khoa, giao thông... Không tổ chức các kỳ thi đại học mà xét tuyển căn cứ kết quả học tập ở các cấp học phổ thông, nhưng Singapore đặc biệt yêu cầu cao ở thi tốt nghiệp đại học.
Cuối những năm 1970, để đối mặt với khó khăn thiếu hụt nhân tài khi các quốc gia phương Tây thay đổi chính sách nhập cư, chấp nhận người di dân châu Á, ông Lý Quang Diệu đã cho thành lập hai ủy ban: Một có nhiệm vụ giúp những người có năng lực làm đúng nghề và ủy ban còn lại kết hợp họ lại thành một xã hội. Bên cạnh đó, ông thành lập hai cơ quan thu hút nhân tài từ Ấn Độ và các nước trong khu vực.
Thủ tướng Lý Quang Diệu là người có công đầu trong cuộc chiến chống tham nhũng, biến Singapore thành một trong những nước “trong sạch” nhất thế giới. Trong thời gian cầm quyền, ông đã ban hành những luật lệ cần thiết dành cho Văn phòng Điều tra tham nhũng nhiều quyền hạn hơn để bắt giữ, lục soát, triệu tập nhân chứng, điều tra các tài khoản ngân hàng và các khoản hoàn trả thuế lợi tức của những cá nhân bị tình nghi cùng với gia đình của họ. Với sự ủng hộ của ông Lý Quang Diệu, Văn phòng được giao thẩm quyền tiến hành các cuộc điều tra đối với bất kỳ viên chức hoặc bộ trưởng nào.
Bên cạnh đó, ông Lý Quang Diệu cũng quyết tâm tăng lương cho các vị trí chủ chốt lãnh đạo nhằm giúp họ cống hiến nhiều hơn cho đất nước, loại bỏ các nguy cơ liên quan đến tham nhũng. Tất cả những điều đó đã mang lại một kết quả được thế giới thừa nhận, giống như ông từng tự hào tuyên bố: “Nếu bạn xưng mình là người Singapore, bất cứ nơi nào bạn đi đến, bạn mang theo sổ hộ chiếu Singapore, người ta tức khắc biết bạn tượng trưng cho tính liêm chính, năng lực và sự đáng tin cậy. Ở các nước vùng Vịnh giàu có, khi họ tìm một chuyên viên tài chính, bạn biết không, họ đã tìm người Singapore!”.
Bên cạnh đó, vị “thuyền trưởng” họ Lý lúc sinh thời luôn nhấn mạnh, mặc dù một nước nhỏ như Singapore luôn phải tìm cách “kết thêm bạn” càng nhiều càng tốt, song điều cốt yếu vẫn phải là giữ được chủ quyền và độc lập. Ông cũng đề cao tinh thần tự lực tự cường vươn lên của đất nước với câu nói nổi tiếng: “Thế giới không ai nợ nần chúng ta. Chúng ta không thể cầm bát đi ăn mày để sống". Chính vì vậy, ông luôn nhắc nhở người dân rằng “ngày nào người Singapore còn năng động, thích nghi và cạnh tranh tốt, ngày đó chúng ta còn có thể tiến lên”.
Giới phân tích từng ví von, 50 năm qua, trên “hải lộ” do “thuyền trưởng” họ Lý vạch ra, bất chấp phong ba bão táp, “chiếc ghe” Singapore đã trở thành một “con tàu” lớn.
Năm 1963, Singapore tham gia vào Liên bang Malaysia, nhưng chỉ 2 năm sau, đến năm 1965 lại tách ra thành nước độc lập. Khi đó, Singapore chưa có Hải quân và Không quân. Lục quân của họ mới chỉ gồm một trung đoàn pháo binh bao gồm các lính tự nguyện, một trung đoàn xe bọc thép, còn bộ binh thường trực không đủ ba tiểu đoàn. Một lực lượng nhỏ bé như vậy không đủ sức bảo vệ đất nước trước bất kỳ một đối phương nào. Cố Thủ tướng Lý Quang Diệu đã nhanh chóng nhận ra rằng cách thức tốt nhất giúp Singapore đứng vững trên eo biển quốc tế chiến lược là thông qua 3 nhóm giải pháp an ninh.
Thứ nhất, Singapore cần tìm kiếm sự ủng hộ của các nước lớn. Để lấp lỗ hổng sau sự ra đi của lực lượng Anh vào mùa xuân năm 1971, tháng 4/1971, Singapore đã ký Hiệp định quốc phòng 5 lực lượng với Anh, Malaysia, Australia và New Zealand. Mặc dù hiệp định này không gồm những cam kết quốc phòng cụ thể, nhưng nó đã tạo ra cơ chế yêu cầu một lực lượng lớn ủng hộ Singapore trong tình huống xảy ra khủng hoảng. Thứ hai, Singapore cần đầu tư xây dựng quân đội hiện đại, tinh nhuệ. Để làm được việc này, ông Lý Quang Diệu đã lấy hệ thống quân sự Israel làm mô hình để Singapore phát triển theo.
Năm 1967, một dự luật được thông qua nhằm bắt buộc tất cả nam giới đủ 18 tuổi phục vụ trong quân đội quốc gia, sau đó là phục vụ trong lực lượng dự bị. Điều luật này không chỉ tạo ra nguồn lực cho quân đội, mà còn xây dựng ý thức về bản sắc quốc gia. Bên cạnh đó, Singapore cũng ưu tiên phát triển quân đội theo hướng hiện đại, tinh nhuệ.
Theo Viện Nghiên cứu hòa bình quốc tế Stockholm (SIPRI), từ năm 2008-2012, với dân số chỉ khoảng 5,3 triệu người, nhưng Singapore là quốc gia nhập khẩu vũ khí lớn thứ 5 thế giới, với ngân sách quốc phòng luôn chiếm 20% ngân sách quốc gia. Giải pháp an ninh thứ ba là Singapore cần tăng cường hợp tác khu vực.
Năm 1966, cố Thủ tướng Lý Quang Diệu quyết định khôi phục thương mại với Indonesia. Ông cũng thực hiện các chuyến thăm tới Kuala Lumpur và Jakarta nhằm xây dựng niềm tin lẫn nhau. Tinh thần hợp tác khu vực đã dẫn tới sự hình thành Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 1967, gồm Singapore, Indonesia, Malaysia, Thái Lan và Philippines là các thành viên sáng lập, tiến tới thiết lập Đông Nam Á thành “khu vực hòa bình, tự do và trung lập” năm 1972. Một trật tự khu vực như vậy là điều kiện để Singapore có thể tập trung vào các vấn đề quan trọng khác trong nước.