\(d\) đi qua \(M\left( 1;-2;0 \right)\) và có VTCP là:
Lập trình song song với OpenMP[sửa]
OpenMP là một thư viện cung cấp giao diện lập trình ứng dụng (API) được sử dụng để điều khiển các luồng, hỗ trợ việc lập trình song song kiến trúc bộ nhớ chia sẻ. Thành phần của OpenMP bao gồm: (i)các biến môi trường (Environment Variables) (ii) các chỉ thị biên dịch (Compiler Directives) (iii) các thư viện thực thi (Runtime Library Routines). Để viết chương trình song song với OpenMP, lập trình viên bắt đầu bằng cách viết một chương trình tuần tự trên ngôn ngữ gốc như C/C++, sau đó thêm vào các chỉ thị (pragma) của OpenMP vào những phần mong muốn được xử lý song song. Việc chia sẻ và đồng bộ các tác vụ được OpenMP điều phối thực hiện.
Lập trình song song với PVM (Parallel Virtual Machine)[sửa]
PVM cung cấp môi trường phần mềm để gửi/nhận thông báo cho các hệ máy tính thuần nhất và cả không thuần nhất. PVM có một tập hợp các hàm thư viện được viết bằng C/C++ hoặc Fortran. Tập các máy tính được sử dụng trong mạng phải được định nghĩa theo các mức ưu tiên để chạy các chương trình. Điều này được thực hiện trên tập máy ảo song song PVM.
Tính toán song song được quan tâm từ khá sớm từ cuối những năm 1950 và ngày càng phát triển cùng với sự phát triển các siêu máy tính trong những năm 60-70 của thế kỷ 20. Siêu máy tính thông thường được thiết kế, chế tạo dựa trên kiến trúc đa bộ xử lý sử dụng bộ nhớ chia sẻ. Vào giữa những năm 1980, dự án xây dựng siêu máy tính với các bộ vi xử lý Intel 8086/8086 ra đời. Hệ thống với các bộ xử lý song song này đã đạt kỷ lục về tốc độ tính toán và giữ vị trí hàng đầu cho đến năm 1997 với sự ra đời của thế hệ siêu máy tính mới. Sự phát triển của công nghệ cụm máy tính vào những năm 1980 và ngày nay là các máy tính cá nhân đa lõi cũng tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển và ứng dụng cửa tính toán song song trong nhiều lĩnh vực đời sống.
Lập trình song song nói riêng và tính toán song song nói chung được áp dụng một cách rộng rãi và hiệu quả trong các bài toán tính toán có kích thước lớn trong tính toán động lực học, dự báo thời tiết, mô hình hóa và mô phỏng các hệ thống lớn, xử lý thông tin, xử lý ảnh, trí tuệ nhân tạo, tự động hóa sản xuất Cùng với sự bùng nổ của thông tin, sự phức tạp trong các bài toán ứng dụng thực tế và sự phát triển liên tục của công nghệ đặc biệt là phần cứng, lập trình song song cùng các giải thuật song song ngày càng đóng vai trò quan trọng trong các lĩnh vực ứng dụng rộng khắp trong đời sống.
(TBKTSG Online) - Liệu còn nên đàm phán (song phương) nữa không khi ở đối phương dường như không có khái niệm “hòa bình”, “thiện chí”, “tôn trọng và nghiêm chỉnh thực hiện các nguyên tắc của luật pháp quốc tế”, khi “biện pháp hòa bình” là một thứ xa xỉ với họ.
Trước những thái độ và hành động hung hăng, hiếu chiến trong một chiến lược dài hơi của Trung Quốc nhằm ôm gần trọn Biển Đông, Việt Nam vẫn chủ trương lựa chọn thương lượng, đàm phán song phương với gã hàng xóm khổng lồ xấu tính này theo đúng tinh thần của “Thỏa thuận về nguyên tắc cơ bản chỉ đạo về giải quyết các vấn đề trên biển”, được ký kết giữa Việt Nam và Trung Quốc vào tháng 10-2011 nhân chuyến thăm Trung Quốc của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Cũng theo thỏa thuận này, đàm phán đa phương sẽ chỉ diễn ra với các nước liên quan khi tranh chấp liên quan đến các nước đó.
Tinh thần của thỏa thuận trên là tích cực khi, theo lời của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam, nó đã xác định các nguyên tắc cơ bản định hướng cho việc giải quyết vấn đề tranh chấp ở Biển Đông bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế và tính đến lợi ích của các bên liên quan. Thỏa thuận này “đòi hỏi nỗ lực và thiện chí của cả hai bên, (cần) tôn trọng và nghiêm chỉnh thực hiện các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên hiệp quốc về Luật Biển 1982 và Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Ðông (DOC)”.
Với tinh thần này, và quả thực là nếu tranh chấp chỉ liên quan đến Việt Nam và Trung Quốc thì việc chỉ đàm phán, thương lượng song phương là điều tỏ ra rất logic, và đối với Việt Nam, dường như chẳng có lý do gì phải kéo thêm một bên thứ ba (không liên quan) vào bàn đàm phán Việt-Trung để làm rắc rối thêm tình hình, thậm chí làm phương hại đến “tình hữu nghị tốt đẹp, lâu đời và quý báu” giữa hai nước.
Còn đối với Trung Quốc thì dù có hay không có thỏa thuận này, họ vẫn chỉ chủ trương giải quyết song phương với tất cả các bên có tranh chấp biển đảo với Trung Quốc vì đã nhuần nhuyễn chiến thuật bẻ từng chiếc đũa trong bó đũa.
Tuy nhiên thực tế lại thường là rất khác với cách nhìn nhận của một số người Việt Nam, và vì thế làm cho việc kiên quyết chỉ giải quyết tranh chấp bằng thương lượng song phương trở thành cái vòng kim cô đối với chúng ta.
Liệu còn nên đàm phán (song phương) nữa không khi ở đối phương dường như không có khái niệm “hòa bình”, “thiện chí”, “tôn trọng và nghiêm chỉnh thực hiện các nguyên tắc của luật pháp quốc tế”, khi “biện pháp hòa bình” là một thứ xa xỉ với họ. Bởi họ đã quen thói luôn tay dao, tay đấm của kẻ côn đồ, mồm thì câu trước hòa bình đi liền sau đó là hăm dọa, bôi nhọ, vu khống, tai thì đậy lại không để một chữ phải quấy nào của đối phương lọt được vào trong?
Đàm phán, thương lượng trong bối cảnh của một kẻ yếu thế trước một kẻ tham lam và bạo ngược như vậy thì đương nhiên kết quả hiếm khi là tốt đẹp cho kẻ yếu thế.
Liệu có nên đàm phán song phương nữa không khi đã biết rõ Trung Quốc chả bao giờ thực tâm không mưu tính vụ lợi, đã và đang sẵn sàng vứt bỏ và xổ toẹt mọi thỏa thuận với cam kết đẹp đẽ, đầy tình hữu nghị đồng chí và anh em, coi chúng chỉ là một loại vũ khí dùng để khống chế sự phản kháng củaViệt Nam? Có nên hy vọng thuyết phục được Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc thay đổi 180 độ quan điểm của mình khi ông ta nói tại cuộc họp song phương với Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam rằng giàn khoan Hải Dương 981 được hạ đặt trong lãnh thổ Trung Quốc và Việt Nam "cản phá"?
Và thêm nữa, liệu có nên đàm phán song phương nữa không khi những tranh chấp dù trên bề mặt chỉ là giữa Việt Nam và Trung Quốc lại ít nhiều liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến các bên thứ ba, mang tính khu vực và quốc tế, ví dụ như quyền tự do và an ninh hàng hải ở Biển Đông, và sự ổn định của khu vực? Đến hàng xóm đánh cãi nhau còn làm khuấy động làng xóm nữa là tranh chấp chủ quyền giữa hai quốc gia, đặc biệt khi luôn có thùng thuốc súng đặt bên cạnh.
“Đóng cửa bảo nhau”, nói chuyện hai bên không được, không nên thì ắt phải có bên thứ ba tham gia. Bên thứ ba này không nên chỉ được hiểu là những nước trực tiếp có tranh chấp với cả Việt Nam và Trung Quốc, và cũng không nhất thiết phải là một đồng minh quân sự với Việt Nam để tăng thêm đối trọng trong thương lượng song phương. Đừng cố gắng hiểu và bị làm cho hiểu theo nghĩa này để ta tự trói tay ta.
Bên thứ ba này có thể là trọng tài quốc tế để phán xử ai đúng ai sai, là các tổ chức khu vực và quốc tế, là những nước, những lực lượng yêu chuộng hòa bình, công lý, thấy sự bất bình thì lên tiếng bênh vực kẻ yếu và chính nghĩa, phê phán kẻ bạo ngược.
Nhưng những tổ chức, những nước và những lực lượng này sẽ không tham gia nếu Việt Nam chủ động “đóng cửa bảo nhau” với Trung Quốc, không cho thế giới bên ngoài biết điều gì đang diễn ra bên trong, trên bàn thương lượng, hoặc tỏ ra cho họ thấy Việt Nam không cần đến họ, hoặc ngược lại, không làm cho họ thấy được rằng họ cần phải lên tiếng ủng hộ Việt Nam, có thể vì chính lợi ích của bản thân họ.
Sự chủ động và tích cực tố cáo Trung Quốc xâm phạm lãnh hải của Việt Nam trên trường quốc tế trong vụ giàn khoan Hải Dương 981 hiện nay là điều tích cực, cần được tiếp tục tăng cường, xét từ góc độ nêu trên. Và cũng từ đây có thể thấy Việt Nam thực tế đã phần nào thoát ly ra khỏi cái vòng kim cô “thỏa thuận” giải quyết song phương nói trên trong cách tiếp cận và giải quyết vụ việc của mình.
Và một số bài học có thể rút ra được ở đây.
Thứ nhất, đừng tự đặt mình vào cái bẫy, tự trói mình vào bất cứ một cam kết, thỏa thuận nào như thỏa thuận nêu trên trong những vụ việc liên quan đến tranh chấp trên Biển Đông với Trung Quốc, mặc dù chúng có thể là sản phẩm tất yếu của sự giao thoa giữa hai Đảng ở hai nước.
Thứ hai, cho dù đôi khi thực sự chỉ cần, chỉ là thương lượng giải quyết song phương thì hãy công khai hóa, minh bạch hóa tối đa quá trình và nội dung thương lượng, cũng như kết quả cho công luận trong và ngoài nước biết. Có như vậy thì vấn đề song phương mới có thể biến thành đa phương nếu thương lượng song phương bế tắc, không đạt được kết quả như công luận kỳ vọng.
Thứ ba, qua những vụ việc thế này ta mới thấy rõ ai và ta có ai là bạn, là đồng minh, hoặc ít ra là “chơi được”. Bởi vậy, song phương hay đa phương không thực sự quan trọng bằng ta có và tạo dựng được những chỗ dựa nào khi khó khăn, để tăng thêm dũng khí và tư thế tự cường trong thương lượng giải quyết tranh chấp hay không.
Mà để thêm bạn thì chỉ còn cách thực tâm đi chung đường với bạn.
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Quan hệ song phương / Chủ nghĩa song phương là việc tiến hành các mối quan hệ chính trị, kinh tế hoặc văn hóa giữa hai quốc gia có chủ quyền. Nó trái ngược với chủ nghĩa đơn phương hoặc đa phương, là hoạt động của một quốc gia duy nhất hoặc hợp tác cùng nhau bởi nhiều quốc gia. Khi các quốc gia công nhận nhau là quốc gia có chủ quyền và đồng ý quan hệ ngoại giao, họ tạo ra mối quan hệ song phương. Các quốc gia có quan hệ song phương sẽ trao đổi các đại lý ngoại giao như đại sứ để tạo điều kiện cho các cuộc đối thoại và hợp tác.
Các hiệp định kinh tế, như hiệp định thương mại tự do (FTA) hoặc đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), được ký kết bởi hai quốc gia, là một ví dụ phổ biến của chủ nghĩa song phương. Vì hầu hết các thỏa thuận kinh tế được ký kết theo các đặc điểm cụ thể của các quốc gia ký kết để dành sự ưu đãi cho nhau, không phải là một nguyên tắc chung chung mà là sự khác biệt mang tính tình huống là cần thiết. Do đó, thông qua chủ nghĩa song phương, các quốc gia có thể có được các thỏa thuận và nghĩa vụ phù hợp hơn chỉ áp dụng cho các quốc gia ký kết cụ thể. Tuy nhiên, các quốc gia sẽ phải đối mặt với sự đánh đổi vì chi phí giao dịch lãng phí hơn so với chiến lược đa phương. Trong chiến lược song phương, một hợp đồng mới phải được đàm phán cho mỗi quốc gia tham gia. Vì vậy, nó có xu hướng được ưa thích khi chi phí giao dịch thấp và thặng dư thành viên, tương ứng với thặng dư nhà sản xuất về mặt kinh tế, là cao. Hơn nữa, điều này sẽ có hiệu quả nếu một quốc gia có ảnh hưởng muốn kiểm soát các quốc gia nhỏ từ góc độ chủ nghĩa tự do, bởi vì xây dựng một loạt các thỏa thuận song phương với các quốc gia nhỏ có thể làm tăng ảnh hưởng của nhà nước đó.[1]
Hợp đồng song phương (Bilateral contract) là một loại hợp đồng mà trong đó hai bên tham gia đều có nghĩa vụ và quyền lợi đối với nhau.
Hợp đồng song phương thường được sử dụng trong các giao dịch thương mại, dịch vụ, lao động, bảo hiểm, cho thuê, mua bán và các hoạt động pháp lý khác.
Hợp đồng song phương có thể được ký kết bằng văn bản hoặc miệng, tùy thuộc vào quy định của pháp luật và sự thỏa thuận của các bên.
Hợp đồng song phương có hiệu lực khi các bên đồng ý về các điều khoản chính của hợp đồng và thể hiện ý chí nhất trí.
Hợp đồng song phương có thể được chấm dứt khi các bên hoàn thành nghĩa vụ của mình, khi có sự thoả thuận của các bên, khi có sự vi phạm nghiêm trọng của một bên hoặc khi có sự thay đổi bất khả kháng về tình hình pháp lý hoặc thực tế.